CÔNG NGHỆ BỨC XẠ TỪ – CÔNG NGHỆ ĐÓN ĐẦU CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 DO TS. VŨ VĂN BẰNG CHỦ TỊCH HĐQT CÔNG TY PHÁT MINH
Những thành công ấn tượng trên chặng đường đưa Công nghệ Bức xạ từ do chính Công ty phát minh vào phục vụ đất nước
LIỆT KÊ NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ SẢN XUẤT PHỤC VỤ THIẾT THỰC VÀ ĐẮC LỰC SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN DÂN SINH KINH TẾ ĐẤT NƯỚC TRONG GẦN 20 NĂM QUA ĐÃ ĐƯỢC CÔNG NGHỆ BỨC XẠ TỪ TÁC ĐỘNG THÀNH CÔNG VÀ HIỆU QUẢ
- Những công trình nghiên cứu khoa học mở rộng Vật lý lý thuyết về trường điện từ thành công nhờ có sự định hướng của “Thuyết bức xạ từ trường pha”
Sau khi phát hiện ra từ trường pha và xây dựng “Thuyết bức xạ từ trường pha”, tác giả ứng dụng thuyết này đi sâu vào nghiên cứu mở rộng Vật lý lý thuyết về trường điện từ, cụ thể:
- Nghiên cứu chứng minh “Trường điện từ” và “Trường hấp dẫn” là một, 2014
Như đã biết, trong mô hình chuẩn của vật lý hiện đại có 4 trường tương tác là trường điện từ, trường hấp dẫn, trường tương tác mạnh và trường tương tác yếu. Trong đó, gần đây các nhà vật lý đã thống nhất được trường điện từ và trường tương tác yếu làm một và đặt tên là trường điện – yếu. Tiếp tục trên cơ sở ra đời thuyết từ trường pha, TS. Vũ Văn Bằng chứng minh trường điện từ và trường hấp dẫn là một và đặt tên là “Trường điện từ pha”. Nhờ có trường này mà tất cả các thể vật chất vật lý trong vũ trụ mênh mông từ micro (nguyên phân tử) đến maxcro (hành tinh) chuyển động theo quy đạo riêng một cách hết sức trật tự và ổn định.
- Nghiên cứu chứng minh “Nguồn gốc từ trường Trái đất”, 2014
Như đã biết nguồn gốc của từ trường Trái đất cho đến nay các nhà khoa học thế giới vẫn chỉ đưa ra dưới dạng giả thuyết, giả thuyết “Dynamo”. Trên cơ sở “Thuyết từ trường pha”, TS. Vũ Văn Bằng bằng toán, vật lý, hóa, cơ đã chứng minh một cách chặt chẽ chính xác tường minh về sự hình thành từ trường của Trái đất. Kết quả từ trường Trái đất chính là từ trường pha. Điều này rất dễ nhận ra vì Trái đất là một thiên thể có cấu trúc pha rất điển hình (nhân lỏng bao lồng nhân cứng, vỏ Manty bao lồng nhân lỏng và nhân cứng, vỏ cứng Trái đất bao ngoài vỏ Manty, tầng khí quyển bao toàn bộ Trái đất). Nhờ kết quả này đã khắc phục được những hạn chế tồn tại của giả thuyết Dinamo để lại không giải thích được, đó là:
- Một, tại sao trục cực từ không trùng với trục địa lý và luôn luôn thay đổi,
- Hai, tại sao lại có hiện tượng cực từ bị đảo chiều,
- Ba, hình ảnh nam châm lưỡng cực của Trái đất được giới khoa học mô phỏng có dạng hình “thỏi” là không chính xác mà phải là hình cầu.
Đặc biệt do cấu trúc của Trái đất như mô tả ở trên, TS. Vũ Văn Bằng còn chứng minh tiếp Trái đất không chỉ có 1 mà có tới 4 loại từ trường có nguồn gốc khác nhau cùng tồn tại – nhân rắn và nhân lỏng, nhân lỏng và vỏ manti, vỏ manti và vỏ cứng Trái đất, vỏ cứng Trái đất với tầng khí quyển.
- Nghiên cứu thiết lập “Thuyết bức xạ từ của cơ thể con người – cơ thể sống và chết”, 2013. Kết quả từ đó phát hiện ra “Hiện tượng nhiễm từ trường ngoài ở người”, TS. Vũ Văn Bằng đặt tên là “Bệnh từ hóa”, 2007
- Nghiên cứu sự tác động có hại của từ trường ngoài gồm: từ trường dị thường (bức xạ lên từ những cấu trúc dị thường của đất đá dưới mặt đất) và từ trường dị biệt (bức xạ lên từ nghĩa trang nghĩa địa, mồ mả hài cốt đơn lẻ…)
- Nghiên cứu chế tạo “Sản phẩm khử từ trường dị thường và từ trường dị biệt của mồ mả hài cốt” để bảo vệ và nâng cao sức khỏe cộng đồng, giảm thiểu tai nạn giao thông đường bộ, đặc biệt ngăn chặn bệnh rối loạn tâm thần phát triển– 2007.
- Nghiên cứu sáng tạo “Phương pháp kiểm tra sức khỏe tổng thể ở người” trên nền “Thuyết bức xạ từ trường pha” , phát hiện bệnh nhanh và chính xác đặc biệt ung thư
- Nghiên cứu thiết lập “Phương pháp xác định người cùng huyết thống”, 2013 phục vụ tìm hài cốt liệt sỹ thất lạc cho Quốc phòng và tìm mồ mả tiên tổ thất lạc cho các gia đình.
- Mô tả những sản phẩm đã được tạo ra từ nghiên cứu ứng dụng thành công CNBXT vào sản xuất thực tế đời sống xã hội góp phần phát triển dân sinh kinh tế đất nước, đặc biệt bảo vệ và nâng cao sức khỏe cộng đồng
- Lĩnh vực môi trường sống của con người: đất, nước, không khí, đặc biệt đất nơi ở và nơi làm việc.
Môi trường sống: không khí, đất, nước, thực phẩm vô cùng quan trọng đối với con người và mọi sinh vật trên Trái đất. Trong đó môi trường đất nơi ăn chốn ở của mọi gia đình và nơi làm việc của mọi cơ quan trường học, công trường, xí nghiệp, doanh nghiệp…“tốt xấu”, “lành dữ”, “địa linh nhân kiệt” hàng ngày tác động trực tiếp đến sức khỏe con người đến nay kể cả trên thế giới cũng như trong nước chưa được giới Khoa học nói chung và Môi trường nói riêng quan tâm nghiên cứu, thậm chí bỏ qua. Trong khi đó, TS. Vũ Văn Bằng đã bỏ công sức và trí tuệ tập trung nghiên cứu về môi trường đất này kể cả mặt tốt cũng như mặt có hại của chúng để bảo vệ và nâng cao sức khỏe cộng đồng từ xa, không những cho người Việt mà cả thế giới. Kết quả nghiên cứu thực sự đáng khích lệ và đã mách bảo cho ta thấy sự cần thiết phải kiểm tra chất lượng mảnh đất tốt xấu nơi ta đang ở và làm việc cũng như kiểm tra trước khi đến nơi ở mới… Đến nay ở Việt Nam đã có nhiều người và tập thể cơ quan nhận thức được điều đó và có nhu cầu muốn biết môi trường đất ta đang sử dụng tốt hay xấu, nên suốt 15 năm nay TS. Vũ Văn Bằng đã trực tiếp đi kiểm tra và xử lý đất nơi ở có hại cho sức khỏe cho hàng ngàn gia đình và hàng trăm trụ sở cơ quan trường học, xí nghiệp và doang nghiệp cũng như hàng trăm dự án khu đô thị, khu công nghiệp xây mới trên khắp cả nước.
Khối lượng công việc được thực hiện nêu trên được liệt kê cụ thể ở dưới đây:
Điển hình trong số đó, trước hết phải kể đến thành công nghiên cứu đo đạc kiểm tra môi trường đất, nước, không khí bằng CNBXT cho:
– “Dự án tâm linh”: “Điểm ngắm cảnh toàn khu” hay “Huyệt đao Am Tiên” nằm trên đình núi Nưa xã Tân Ninh, tỉnh Thanh Hóa theo thông báo của Văn phòng Tỉnh Ủy tỉnh Thanh Hóa và yêu cầu của UBND Huyện Triệu Sơn, năm 2016. CNBXT đã kiểm tra chất lượng môi trường đất, nước ngầm và không khí của toàn “Huyệt đạo” và đã có báo cáo kết quả gửi tỉnh UBND tỉnh Thanh Hóa. Trong đó kết luận: “Vùng này không thể trở thành “điểm ngắm cảnh toàn khu” hay gọi là “Huyệt đạo An Tiêm” được vì cấu trúc địa chất có đứt gẫy kiến tạo lớn chứa nước ngầm cắt ngang qua nên cả vùng không được ổn định, đặc biệt trên đỉnh núi đã từng là nghĩa địa lớn chôn người chết…”.
– Khu vực Đảo Yến – Vũng Chùa, Quảng Bình – “Nơi an nghỉ vĩnh hằng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp” rộng 2,5km2 đã được CNBXT làm sạch môi trường đất nước và không khí vào cuối năm 2006 đầu năm 2007.
– “Vườn chữa bệnh kỳ lạ Long An” đến nay mặc dù không còn tấp nập người đến “tự chữa bệnh” như những năm đầu (2003-2010) và tuy đã có 3 đề tài Khoa học cấp quốc gia nghiên cứu tìm thực hư của sự “chữa bệnh kỳ lạ” này, nhưng kết quả dưới góc độ khoa học của 3 đề tài này vẫn không giải mã được. Năm 2019 Công ty Tia đất tự nguyện vào khảo sát nghiên cứu độc lập bằng CNBXT, kết quả đã xác định đây đúng là khu đất có khả năng dưỡng sinh, hạn chế bệnh tật nâng cao sức khỏe cho con người tương tự như những vùng nổi tiếng được mệnh danh “Đất thánh” chữa được bệnh ở nước ngoài. Cụ thể bằng CNBXT đã tìm ra được những thông số yếu tố môi trường đất, nước ngầm, không khí có tác động tích cực đối với sức khỏe con người, đặc biệt giải mã được những điều kiện tự nhiên như thế nào để sản sinh ra mảnh đất “Kỳ lạ” đó. Và từ đó Công ty tia đất với tâm nguyện là sẽ đi khắp mọi miền đất nước để phát hiện tìm kiếm thêm những mảnh đất tốt như thế góp phần nâng cao sức khỏe người Việt và giảm tải cho các bệnh viện trên toàn quốc. Kết quả từ năm 2019 đến nay, Công ty Tia đất đã tìm được nhiều mảnh đất có khả năng dưỡng sinh như thế ở cả 3 miến Bắc, Trung và Nam, khu đất của Cơ sở chăm sóc sức khỏe ở xã Vĩnh Kim, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh là một ví dụ. Dự định năm tới (2022) sẽ có báo cáo chính thức gửi tới Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường về kết quả nghiên cứu này.
Tiếp tục dưới đây thống kê loạt những kết quả kiểm tra chất lượng môi trường đất nơi ở và làm việc cũng như những khu đất Dự án mới sắp xây dựng trên toàn quốc:
Kiểm tra môi trường đất Dự án
Ở phía Nam:
- Khu Khách sạn Bãi Sau, Công ty Quang Bình, Vũng Tàu;
- Khu đô thị cao cấp, Tổng công ty Thảo Điền – Vinaconex, Sài Gòn;
- Khu xây dựng nhà máy gỗ Bình Duowng, Cty Thái Bình Dương, Sài Gòn,
- Khu đô thị Đảo Kim Cương (Diamond Island), Công ty CP Bất động sản Bình Thiên An, Sài Gòn 2010,
- Toàn bộ đất khu Golf Long Thành, 2009,
- Dự án: “Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát triển dược liệu Tây Nguyên, địa điểm Số 18 Hoàng Văn Thụ, Phường 5, TP. Đà Lạt, Tỉnh Lâm Đồng, 2019,
- Dự án: “Cấp nước Trại heo giống Bình Phước” Ấp 5, xã Tân Hưng, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.
Tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Huế
- Dự án: “Khu du lịch Trung Kỳ – Viêm Đông” thuộc phường Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam,
- Dự án: “Nhà máy Pepsi-Cola Mỹ” tại Lô số 10, KCN Điện Bàn – Điện Ngọc, xã Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam,
- Dự án: “Athena Luxury Đà Nẵng Riverside”, Khu đất A2-1 Khu dân cư Làng cá Nại Hiên Đông, phường Nại Hiên Đông, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng,
- Dự án: “Đập thủy điệ Hương Hóa” – Huế.
Tỉnh Quảng Bình:
- Plaza Đồng Hới, Trường Thịnh, Quảng Bình và trên 20 đia điểm xí nghiệp, cửa hàng, sản xuất kinh doanh, đình đền, nghĩa trang dòng họ của Tập đoàn Trường Thịnh, 2008,
- Khu nghỉ dưỡng Đảo Yến – Vũng Chùa, nơi yên nghỉ vĩnh hằng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, 2006-2007,
- Khu bãi đỗ xe vận tải nhà máy xi măng Sông Gianh, Cty CP Vận tải đa phương thức Quảng Bình,
- Khu đất mới Bệnh viện Y học Cổ truyền Đồng Hới, Quảng Bình,
- Khu đất mới Sở Tài Nguyên & Môi Trường Quảng Bình,
- Nhà máy Bao bì Đồng Hới, Quảng Bình,
- Khu đất mới trụ sở Công ty Thương mại Đồng Hới, Quảng Bình,
- Nhà máy gỗ, Quảng Bình,
- Nhà máy thép, Quảng Bình,
- Nhà máy xi măng, Quảng Bình,
- Khách sạn Bảo Ninh, diện tích 1.000m2 , Quảng Bình,
- Nhà máy chế biến dăm, diện tích 7.000m2 , Quảng Bình,
- Khu đất mới – xã Thuận Ninh, diện tích 2.700m2 Quảng Bình,
- Dự án khách sạn 5 sao Pullman Quảng Bình và Nhật Lệ, Đường Võ Nguyên Giáp, xã Bảo Ninh, TP. Đồng Hới, Quảng Bình.
Các Tỉnh phía Bắc
- Dự án: “Điểm ngắm cảnh toàn khu” hay “Huyệt đao Am Tiên” nằm ở trên đình núi Nưa xã Tân Ninh, tỉnh Thanh Hóa. Khảo sát kiểm tra môi trường đất, nước, không khítheo Thông báo của VP Tỉnh Ủy tỉnh Thanh Hóa và yêu cầu của UBND H. Triệu Sơn.
- Khu xây dựng nhà máy gạch Tuy nen Tuyên Quang, Công ty CP Xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội,
- Khu xây dựng nhà máy Giấy Tuyên Quang, Công ty CP Xuất nhập khẩu tổng hợp HN,
- Dự án Cụm Công nghiệp Phong Phú, đường Quách Đình Bảo, phường Tiền Phong và Khu dân cư tái định cư phường Kỳ Bá thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình,
- Dự án: Khu sinh thái thành phố Hưng Yên,
- Dự án Nhà máy thức ăn chăn nuôi Thaiway – Khu công nghiệp Đồng Văn – huyện Duy Tiên – tỉnh Hà Nam,
- Dự án Nhà máy sản xuất và bào chế dược phẩm, địa điểm: Lô N2, đường TS6, KCN Tiên Sơn, H.Tiên Du, Bắc Ninh.
Thành phố Hà Nội
- Khu chợ 19/12 (chợ Âm Phủ), Công ty Thủ Đô 2,
- Dự án khu đô thị Định Công,
- Dự án khu đô thị: Cầu Diễn, Mễ Trì, Thanh Trì, Mỹ Đình, Nam Ciputra, Phú Thượng, Vũ Ngọc Phan, Hàng Chuối, khu kho Sân bay Nội Bài,
- Dự án các khu đô thị mới ở Hà Nội (2013-2018): Cầu Diễn, Mễ Trì, Thanh Trì, Pháp Vân, Mỹ Đình, Nam Ciputra, Vũ Ngọc Phan, Hàng Chuối, Hàng Trống, Láng Hạ, Vĩnh Tuy, Thịnh Liệt, Bắc Thăng Long, Xuân La, Xuân Đỉnh, Phú Thượng,
- Dự án: Khu nhà ở Him Lam Vĩnh Tuy, Phường Long Biên, Quận Long Biên, TP. Hà Nội,
- Dự án Đường giao thông bao quanh khu Tưởng niệm Danh nhân Chu Văn An và khu Chức năng Đô thị Nam đường vành đai 3,
- Khu nhà ở xã hội Thượng Thanh và đấu nối hạ tầng khu vực Phường Thượng Thanh, quận Long Biên, TP. Hà Nội
- Khu Công nghiệp Sóc Sơn…,
- Dự án “Đầu tư xây dựng nhà ở tại khu đất dự án Bồi thường, hỗ trợ GPMB phục vụ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đấu giá trên địa bàn xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, TP. Hà Nội”,
- Dự án Kho ALS Sân Bay Quốc tế Nội Bài, Xã Phú Minh, Huyện Sóc Sơn, Hà Nội,
- Dự án Xây nhà ở cho cán bộ chiến sỹ Tổng cục Cảnh sát Phòng cháy TP. Phường Phương Canh, Quận Nam Từ Liêm, TP. Hà Nội,
- Dự án Hải Đăng City thuộc Phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội,
- Dự án Tổ hợp Nhà cao tầng, dịch vụ thương mại và văn phòng tại ô HH-II.5.1,
- Khu đất: Lô HH-II.5.1 thuộc Dự án Khu đô thị mới Pháp Vân – Tứ Hiệp, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội,
Kiểm tra và xử lý đất đang sử dụng (nơi làm việc): Trụ sở của các Cơ quan, Trường học, Công ty, Xí nghiệp, Doanh nghiệp…
Thủ đô Hà Nội
- Toàn bộ trụ sở UBND TP. Hà Nội (2015), thời Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo,
- Khu văn phòng Bé Y tÕ– Gi¹ng Vâ, Hµ Néi (2010), thời Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu,
- Khu văn phòng Bộ Công An, Hà Nội (2007),
- Khu Văn phòng Bộ Giao thông (2010),
- Toàn bộ Trụ sở Tòa án ND Hà Nội (2015),
- Toàn bộ trụ sở Tòa án ND Ba Đình, Hà Nội (2007),
- Khu văn phòng Ban truyền thông và tạp chí Trụ sở Liên Hiệp Hội VN, Hà Nội, (2010),
- Toàn bộ Trường Đại học Mỏ Địa chất (2013),
- Học viện cảnh sát Cổ Nhuế (khu tập thể -2007),
- Viện ngân hàng Gene, Bộ Nông Nghiệp, Hà Nội,
- Công ty CP dịch vụ Hàng Không – Gia Lâm, Hà Nội, Sân bay Nội Bài.
Tỉnh Hải Dương
- Toàn bộ trụ sở Sở Công an Hải Dương.
Tỉnh Hải Phòng
- Trụ sở UBND huyện Bạch Long Vỹ,
- Trụ sở UBND huyện Cát Bà.
Tỉnh Hà Giang
- Toàn bộ trụ sở Sở KH&NC Hà Giang,
- Toàn bộ trụ sở Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Giang,
- Toàn bộ trụ sở Sở Văn hóa thông tin và Du lịch Hà Giang,
- Toàn bộ trụ sở Huyện ủy và Uy ban huyện Đồng Văn và huyện Mèo Vạc.
Tỉnh Quảng Bình
Toàn bộ trụ sở của các cơ quan chính quyền, Sở ban ngành tỉnh:
- Trụ sở cũ và mới Tỉnh ủy và UBND tỉnh, 2015-2018,
- Tất cả trụ sở của các Sở Ban ngành của tỉnh Quảng Bình (Sở TN&MT, KH&CN, Tài chính, Kế hoạch & Đầu tư, Y tế, Giáo dục và đào tạo, Giao Thông, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, Nội vụ, Tư pháp, Công An, làng SOS…),
- Ngân hàng Thương mại Quảng Bình,
- Ngân hàng Bắc Quảng Bình,
- UBND huyện Tuyên Hóa,
- Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Quảng Bình…,
- Toàn bộ trụ sở của các Công ty và tập đoàn lớn nhỏ của Tỉnh đóng ở TP. Đồng Hới.
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
- Trụ sở Sở Khoa học & Công nghệ Bà Rịa- Vũng Tàu,
- UBND Huyện Côn Đảo
- UBND Huyện Châu Đức
- Khu tập thể cán bộ công nghên viên Dầu khí
Huế
- Khu đô thị mở rộng thành phố Huế.
Riêng đối với đất thổ cư đang sinh sống của các gia đình ở các Tỉnh thành trên toàn quốc đã được khảo sát đo đạc kiểm tra và xử lý đến nay đã đạt tới con số hàng nghìn gia đình. Ở tại các gia đình đó CNBXT làm 2 việc cùng một lúc là vừa xử lý triệt tiêu nguồn từ trường dị thường và từ trường dị biệt có hại gây nhiễm từ vừa kết hợp khử nhiễm từ trong trên cơ thể người
- Lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc nâng cao sức khỏe cộng đồng,
CNBXT đã trở thành công cụ độc đáo sát cánh cùng ngành Y kiểm tra, chăm sóc sức khỏe cộng đồng hiệu quả:
- Đã nghiên cứu thành công đưa từ kế thuộc CNBXT vào lĩnh vực Y tế, kiểm tra sức khỏe ở người. Kết quả phát hiện bệnh tật trong cơ thể con người, kể cả bệnh ung thư vừa nhanh vừa chính xác. Cụ thể đã tham gia nghiên cứu cùng Cơ sở chăm sóc sức khoẻ chữa ung thư ở xã Vĩnh Kim, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh 2019 và hiện đang là Cố vấn nghiên cứu kiểm tra và chăm sóc sức khỏe bằng CNBXT cho Viện Khoa học Chăm sóc sức khỏe Việt Nam, Vạn Phúc, Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.
- Nghiên cứu phát hiện ra “Hiện tượng nhiễm từ ở người” – đã tìm ra nguyên nhân và cơ chế gây nhiễm từ ở người và TS. Vũ Văn Bằng đặt tên là “Bệnh từ hóa ở người” – căn bệnh chưa có trong danh mục bệnh lý của ngành Y thế giới cũng như trong nước. Đây là một trong những nguyên nhân gây bệnh rối loạn tâm thân mà ngành Y chưa biết đến. Trong khi đó hiện tượng từ hóa ở người diễn ra khá phổ biến trên khắp trên thế giới, chứ không riêng gì ở Việt Nam. Để khống chế căn bệnh này, Công ty Tia đất bằng CNBXT trước hết kiểm tra xem người nào đó có bị nhiễm từ hay không, nếu bị nhiễm đang ở cấp độ mấy, tiếp theo là kiểm tra nguồn từ gây nhiễm đang tồn tại ở đâu trong nhà và nơi làm việc (trụ sở cơ quan, trường học…). Sau khi đã xác định rõ 2 thông số liên quan sinh ra hiện tượng nhiễm từ này sẽ có sản phẩm cũng chính do Công ty Tia đất nghiên cứu chế tác xử lý hữu hiệu hiện tượng đó. Nhờ đó đến nay Công ty đã giúp cho hàng ngàn gia đình trên khắp đất nước trong nhà có người bị nhiễm từ trường ngoài do tia đất và mồ mả hài cốt dưới nền nhà bức xạ lên trở lại tỉnh táo bình thường.
- Lĩnh vực tìm mồ mả hài cốt bị mất dấu tích, đặc biệt tìm hài cốt liệt sỹ thất lạc ở cả 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Sáng tạo phương pháp xác định AND tại chỗ
- Tìm mồ mả hài cốt thất lạc. Đây là lĩnh vực hoàn toàn mới, đến nay trên thề giới cũng như trong nước chưa có phương pháp và máy móc thiết bị tìm mồ mả hài cốt thất lạc, đặc biệt tìm kiếm những người lính chết trận qua nhiều cuộc binh biến chiến tranh trên toàn cầu. Điển hình như nước Mỹ đi tìm hài cốt lĩnh Mỹ chết trận trong cuộc chiến ở Việt Nam năm xưa đến nay vẫn đi tìm bới mò bằng cuốc xẻng. Trong khi đó ở Việt Nam Công ty Tia đất đã sáng tạo ra phương pháp và máy móc thuộc CNBXT để tìm kiếm mồ mả hài cốt thất lạc một cách nhanh chóng và chính xác. Hơn 10 năm qua kể từ năm 2007 đến nay trên tinh thần thiện nguyện, bằng CNBXT và từ kế thuộc công nghệ đã tìm được hơn 5000 hài cốt liệt sỹ thất lạc ở cả 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Riêng các dòng họ, gia đình có mồ mả tiên tổ thất lạc do lũ lụt, chiến tranh… đã hàng chục, trăm năm qua nay được tìm thấy nhờ CNBXT của Công ty Tia đất nhập cuộc. Số gia đình yêu cầu giúp đỡ lên tới hàng trăm trường hợp, đặc biệt nhiều ở các làng xã dọc 2 bên bờ sông Hồng (bị mất dấu do lũ lụt vỡ đê). Dưới đây là một số số liệu minh họa:
Theo yêu cầu của Tỉnh Đội Quảng Trị.
- Tìm và cất bốc, quy tập 1 mộ tập thể 173 liệt sĩ ở Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quảng Trị 2007,
- Tìm và định vị 2 mộ tập thể 600 và 50 liệt sĩ ở Đakrong và Ba Lòng, Quảng Trị, 2007 (Ở 2 ngôi mộ này Tỉnh đội đã khoanh vùng và xây đài tưởng niệm mà không cất bốc di đời).
- Tìm và cất bốc, quy tập ngôi mộ tập thể3 liệt sĩ ở Khe Sanh, 2008
Theo yêu cầu của Sở Khoa học và Công nghệ Bà Rịa-Vũng Tầu. Sở thành lập Đề tài nghiên cứu KH&CN: “Tìm 2 ngôi mộ tập thể thất lạc ở huyện Đảo Côn Đảo bằng phương pháp địa bức xạ” năm 2011, Công ty Tia đất chủ trì, TS. Vũ Văn Bằng CN Đề tài. Kết quả đã tìm thấy và định vị 2 ngôi mộ tập thể 75 liệt sĩ cách mạng ở gần sân bay Cổ Ống và 154 tử tù ở trước cửa Chuồng Cọp, huyện Côn Đảo, 2011. Đề tài thành công. Cơ quan chủ quản Đề tài và Ban lãnh đạo huyện Đảo cùng Ban di tích lịch sử Đảo đã đào kiểm tra và xác nhận đúng là 2 ngôi mộ tập thể cần tìm và khoanh vùng xây đài tưởng niệm mà không khai quật di dời.
Theo công văn yêu cầu của tỉnh Đội Gia Lai
- Giúp Đội quy tập K52 tìm hài cốt liệt sỹ thất lạc ở 4 tỉnh của Campuchia bằng khoa học – máy móc đo đạc phát hiện tìm kiếm, năm 2011
- Ngay trên đất Gia Lai, đã giúp huyện đội Đức Cơ phát hiện 4 nghĩa địa với trên 1000 hài cốt liệt sĩ. Huyện đội đã cho đào cất bốc ngay sau đó và đến năm 2012 khai quật được trên 500 ngôi (theo thông báo của ông Tỉnh đội trưởng tỉnh đội Gia Lai), công việc khai quật vẫn đang tiếp tục sau đó.
Theo yêu cầu của Hội Cựu chiến bình tỉnh Hải Dương
- Tìm và cất bốc 2 hài cốt liệt sỹ ở biên giới Việt Nam và Lào quy tập về tỉnh Sơn La năm 2013
- Tìm hài cốt liệt sỹ thất lạc ở tỉnh Savannakhet, Lào cùng với Đội quy tập tỉnh Thanh Hóa, năm 2013
Theo yêu cầu của các gia đình liệt sỹ
- Tìm và cất bốc, quy tập 1 hài cốt liệt sĩ ở Quảng Nam, 2012 cho gia đình ở Hà Nội
- Tìm và cất bốc, quy tập 1 hài cốt liệt sĩ ở Buôn Hồ, tỉnh Buôn Mê Thuật, 2013 cho gia đình ở Hà Nội.
- Tìm và cất bốc, quy tập 1 hài cốt liệt sĩ ở huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, 2011 cho gia đình ở Thái Nguyên.
- Tìm và cất bốc di dời 2 hài cốt liệt sỹ ở đường 13 tỉnh Bình Dương năm 2016 cho gia đình ở Thái Bình
- Tìm và cất bốc di dời hài cốt liệt sỹ hy sinh năm 1952 (thời chống Pháp) ở Phú Thọ, cho gia đình ở tình Hà Nam.
Tìm mồ mả thất lạc cho các gia đình trên khắp cả nước, đăc biệt nhiều ở miền Bắc: xung quanh Hà Nội và dọc sông Hồng. Tính đến nay đã được hàng trăm ngôi.
- CNBXT có thể xác định người cùng huyết thống tại chỗ thay xét nghiệm AND trong phòng. Trong quá trình đi tìm hài cốt liệt sỹ và mồ mả tiên tổ thất lạc ở các gia đình, Trên cơ sở từ nhu cầu thực tế, TS. Vũ Văn Bằng đã nghiên cứu sáng tạo ra phương pháp xác định người cùng huyết thống tại chỗ nhanh và chính xác. Thành công này được thể hiện và minh chứng ở hàng trăm trường hợp đi tìm hài cốt liệt sỹ thất lạc (ở Huế, Lào, Phú Thọ…) với người nhà của liệt sỹ cùng đi, kể cả các gia đình hoặc dòng họ có mồ mả tiên tổ thất lạc do mất dấu như kể trên.
- Lĩnh vực Cứu hộ cứu nạn (tìm người bị vùi lấp trên cạn và dưới nước do thiên tai và nhân tai bằng từ kế của CNBXT);
Đây là lĩnh vực hoàn toàn mới. Cho đến nay trên thế giới chưa có phương pháp cũng như máy móc tìm người gặp nạn bị vùi lấp trên cạn cũng như dưới nước (ao hồ, sông biển…). Ví dụ: trận động đất sóng thần ở Nhật Bản năm 2011 gần 20 nghìn người bị vùi lấp và mất tích, cho đến nay hàng ngày vẫn có nhiều tốp người vác cuốc xẻng đi bới tìm mò. Mới đây nhất ngày 30/09/2018 trân động đất sóng thần ở Indonesia cũng vậy. Trong khi đó Công ty Tia đất trên cơ sở CNBXT đã sáng tạo ra phương pháp Bức xạ từ để tìm người bị vùi lấp trên cạn cũng như dưới nước. Cụ thể Công ty đã tình nguyện (không tính công) tham gia cứu hộ cứu nạn thành công mỹ mãn ở các vụ sau:
- Vụ xe khách đổ trên sông Lam, Hà Tĩnh 2010, bằng máy đã tìm thấy xác chiếc xe nằm cách nơi xe đổ 700m xuôi về phía hạ lưu và thi thể người lái xe chìm dưới đáy sông cách nơi xe đổ 50m;
- Vụ sập mỏ đá Lèn Cờ, Nghệ An 2011, tìm thấy 2 nạn nhân cuối cùng (2 anh em ruột);
- Vụ sập bãi thải than Phấn Mễ, tỉnh Thái Nguyên năm 2012, bằng máy xác định chính xác vị trí 4 nạn nhân trong một gia đình bị vùi lấp ở độ sâu trên 13m. Kết quả sau 3 ngày đào bới đến đúng vị trí máy xác định tìm thấy 4 thi thể trên;
- Vụ 1 chiến sỹ Công an xã Đạo Trù, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc bị lũ cuốn trôi, gia đình và cơ quan cùng ngoại cảm tìm trong 21 ngày không thấy. Sau 1 ngày đo đạc bằng máy, Công ty Tia đất đã định vị chính xác vị trí nạn nhân bị vùi trong bãi bồi mới ở độ sâu 1,5m. Kết quả gia đình thuê máy múc, sau 3 lần múc gặp được thi thể nạn nhân….
- Lĩnh vực Xây dựng, Giao thông, Thủy lợi, Thủy điện,
CNBXT với chỉ một từ kế duy nhất thuộc công nghệ có thể khảo sát kiểm tra phát hiện được tất cả những điểm yếu về thành phần và cấu trúc địa chất (địa chất học gọi là những dị thường cấu trúc địa chất) của nền đất đá nằm dưới móng các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, thủy lợi, thủy điện ảnh hưởng bất lợi tới biến dạng ổn định, gây sập sụt đổ vỡ công trình. Trong số những dị thường cấu trúc địa chất phổ biến và đáng kể nhất được CNBXT điểm mặt chỉ tên nhanh chóng và chính xác gồm: đứt gẫy kiến tạo, đới dập vỡ kiến tạo, hang karst ngầm, sụt trượt ngầm, xói ngầm, dòng ngầm…tồn tại trong đá gốc lục nguyên, bazan và đá vôi, cũng như những vũng vịnh ao hồ đầm lầy cổ bị vùi lấp, túi bùn, cát chẩy… hình thành trong quá trình tạo nên đồng bằng của các con sông lớn. CNBXT có thể phát hiện và xác định một cách định lượng các thông số riêng của từng loại dị thượng một như: vị trí, kích thước không gian 3 chiều, hình dạng chiếu bằng và nằm ở độ sâu cách mặt đất bao nhiêu mét, lập bản đồ phân bố các loại dị thường địa chất có mặt trong phạm vi nghiên cứu rộng hay hẹp tùy bên yêu cầu có thể là Xã, Huyện hoặc Tỉnh, cũng như tìm ra được mối liên hệ và tương quan giữa các loại dị thường với nhau…Lấy một số ví dụ điển hình liệt kê dưới đây làm minh chứng:
- Một Dự án điển hình là: “Khảo sát lập bản đồ đứt gẫy kiến tạo, hang karst ngầm và dòng chẩy ngầm dưới lòng hồ thủy điện Nậm Pàn, tỉnh Sơn La”, 2010, thực hiện Hợp đồng KTKT với Công ty CP Tư vấn điện lực dầu khí Việt Nam. Đo đạc nghiên cứu thực địa trên diện tích hơn 20km2, sau 3 ngày đã có kết quả phát hiện và định vị được 3 đứt gẫy kiến tạo giao nhau đúng ở vị trí đập dâng nước chính, 27 dòng chẩy ngầm lớn nhỏ và 22 hang karst ngầm. Để kiểm tra tính chính xác kết quả đo của CNBXT, chủ đầu tư đã tiến hành khoan kiểm chứng ở 3 vị trí chọn ngẫu nhiên, nơi máy xác định có 3 loại dị thường nêu trên. Chủ đầu tư vô cùng cảm kích và thán phục trước độ chính xác của CNBXT cho kết quả trùng khớp với đo đạc mà trước đó chủ đầu tư cũng đã tiến hành kiểm tra như vậy với kết quả của 1 đơn vị thăm dò địa vật lý điện, kết quả khoan kiểm chứng không trúng một điểm nào. Đây cũng là lý do chủ đầu tư yêu cầu ký hợp đồng với Công ty Tia đất dùng CNBXT thay phương pháp Địa vật lý điện dùng trường điện tự nhiên cục bộ.
- Một công trình có giá trị ý nghĩa khoa học, thực tiễn và kinh tế xã hội lớn nữa của CNBXT đem lại đó là “Khảo sát nghiên cứu tìm nguyên nhân động đất và kiểm tra độ an toàn của đập thủy điện Sông Tranh 2, Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam” 2012. Thực hiện chức năng tư vấn phản biện khoa học và được sự nhất trí của Liên hiệp các hội KHKT Việt Nam, TS. Vũ Văn Bằng đã đến thực địa (kinh phí tự trang trải) sử dụng CNBXT khảo sát đánh giá tình hình động đất và độ an toàn ổn định của Đập thủy điện Sông Tranh 2, Bắc Trà My, Quảng Nam. Công tác khảo sát đo đạc tại thực địa được tiến hành trên tổng diện tích khoảng 400km2, bao gồm toàn bộ vùng lòng hồ, khu vực đập chính, đập phụ và vùng lân cận. Chỉ sau 3 ngày khảo sát nghiên cứu đo đạc đã có kết quả ngay tại thực địa. , cụ thể là:
Trong phạm vi lòng hồ thủy điện sông Tranh 2 đã phát hiện và xác định được vị trí (tọa độ) của hệ thống gồm 6 ĐGKT đang hoạt động, có đứt gẫy xuất hiện nước nóng. Bản đồ vị trí các đứt gẫy do CNBXT phát hiện và định vị khác nhiều so với bản đồ do Điạ chất và Viện Vật lý địa cầu lập.
Đặc biệt không có đứt gẫy kiến tạo (ĐGKT) nằm dưới con đập dâng nước như các nhà Địa chất cảnh báo.
Kết quả nêu trên được lập thành báo cáo đóng quyển gửi tới 14 cơ quan chức năng Nhà nước gồm: Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải, Liên hiệp các Hội KH&KTVN, Văn phòng Chính phủ, Ban Tuyên giáo Trung ương, UBKH&MT Quốc hội, Bộ KH&CN, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Hàn lâm KH&CNVN, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Hội đồng nghiệm thu Nhà nước các Công trình xây dựng, UBND tỉnh Quảng nam, UBND huyện Bắc Trà My. Trong đó kết luận:
“Động đất kích thích đã ở vào giai đoạn cuối của thời kỳ tiền chấn (thời kỳ đỉnh) và đang chuyển sang thời kỳ dư chấn (giảm dần). Đáy đập thủy điện không có ĐGKT cắt qua như các nhà địa chất công bố, nên đập hoàn toàn an toàn và ổn định, có thể tiếp tục dâng nước sản xuất điện” đã tiết kiệm cho Tập đoàn điệm lực hàng trăm tỷ đồng, không phải mời chuyên gia nước ngoài như dự định trước đó và không phải gia cường gia cố lại đập, tiếp tục sản xuất điện…Và cũng từ đó cho đến nay hiện tượng động đất giảm hẳn về tần xuất và cấp độ, cũng như con đập vẫn làm việc bình thường. Thực tế đó đã chứng minh kết luận như trên là hoàn toàn đúng đắn chính xác, như vậy sử dụng CNBXT rất hiệu quả vào nghiên cứu dị thường địa chất.
Trong lĩnh vực Xây dựng, Giao thông, Thủy lợi, Thủy điện CNBXT không chỉ dừng lại ở khâu kiểm tra nền đất để giải bài toán biến dạng ổn định nền móng công trình như mô tả ở trên, mà còn kiểm tra chất lượng vật liệu xây dựng cũng như chất lượng trong quá trình thi công các loại công trình cho kết quả siêu nhanh và chính xác
- Kiểm tra độ đầm chặt đổ bê tông
- Kiểm tra độ lấp đầy hay bỏ trống mạch khi trát vữa xây gạch đá
- Kiểm tra độ lu lèn đồng đều đất san lấp dưới móng công trình, đặc biệt nền đường bộ, sân bay bến cảng…
- Kiểm tra khuyết tật các cấu kiện đúc bằng bê tông cốt thép cho tất cả các công trình xây dựng: bọt khí, xốp rỗng, đặc biệt phát hiện được cả các vi nứt mắt thường không nhìn thấy.
- Kiểm tra độ chặt đồng đều trong quá trình thi công bê tông đáy hồ, lu lèn mặt đường sân bay bến cảng trước khi rải nhựa
- Kiểm tra khuyết tật rỗng xốp, vi nứt kể cả tổ mối trong thân đê đập chắn dâng nước
- Phát hiện và tìm kiếm các công trình ngầm bị thất lạc, bỏ quên (hầm ngầm, kho ngầm, các loại đường ống cấp thoát nước, dẫn dầu khí, đường điện chôn ngầm…)
- Phát hiện sự cố của các công trình ngầm: dập vỡ đường ống các loại, chập cáp điện ngầm)
CNBXT đã làm được những nội dung nêu trên cho các công trình thực tế điển hình sau:
- Xây “Hồ treo” thứ 2 xã Tả Lủng, huyện Mèo Vạc, Hà Giang 2005, toàn bộ công tác kiểm tra chất lượng thi công đổ bê tông lòng hồ, xây đập tràn và hệ thống tường quây… được từ kế của CNBXT kiểm tra tại chỗ thay cán bộ kiểm tra giám sát kỹ thuật công trường.
- Kiểm tra độ an toàn của Đập thủy điện Sông Tranh 2, bắc Trà My, Quảng Nam. Trước tỉnh hình động đất kích thích sẩy ra liên tục với cường độ tăng dần từ năm 2010-2011-2012 ở vùng hồ thủy điện Sông Tranh 2 Bắc Trà My, Quảng Nam, đặc biệt giới Địa chất lại thông báo có nhiều đứt gẫy địa chất kiến tạo tồn tại dưới lòng hồ, đặc biệt trong số đó có 1 đứt gẫy cắt ngang qua dưới đáy đập, như vậy rất nguy hiểm cho con đập sẽ không được an toàn trước tình hình động đất ngày càng gia tăng này. Do vậy, Tập đoàn Điện lực phải quyết định cho hạ thấp mực nước hồ và ngừng sản xuất điện. Với chức năng tư vấn phản biện khoa học, Liên hiệp Hội Việt Nam đã giao cho CNBXT vào cuộc làm sáng tỏ vấn đề này. Kết quả kiểm tra cấu trúc đất đá nền lòng hồ và kiểm tra nền móng cũng như bản thân con đập, kể cả 2 vai đập tựa vào 2 ngọn núi 2 bên. Kết quả như sau:
+ Không có đứt gẫy kiến tạo, dòng ngầm, xói ngầm dưới đáy đập
+ Thân đập không bị biến dạng uốn võng xoắn, nứt nẻ dập vỡ, thậm chí vi nứt không có
+ Triền núi 2 vai đập gối vào hoàn toàn ổn định, không có sụt lún trượt lở xói ngầm
+ Duy nhất ở mỗi vai đập xuất hiện dòng thầm nhỏ. Kết quả này đã lưu ý cho Tập đoàn Điện lực trong báo cáo chính thức.
Riêng đối với ngành Giao thông, ngoài vấn đề kiểm tra chất lượng địa chất dưới nền đường, chất lượng thi công đào đắp nền đường và độ chặt nền đường khi lu lèn… CNBXT còn giúp chỉ ra nguyên nhân hình thành những “điểm đen” tai nạn giao thông đường bộ, đường hàng không. Cụ thể
- Nghiên cứu độc lập (kinh phí tự trang trải) theo yêu cầu của Báo Công an nhân dân: “Khảo sát thực địa tìm nguyên nhân tai nạn giao thông thường xuyên xẩy ra trên QL1 đoạn Pháp Vân – Cầu Dẽ năm 2005 và 2006”. Kết quả đã tìm ra nguyên nhân là do tia đất (từ trường dị thường) và đã cung cấp tài liệu cho cảnh sát giao thông huyện Thường Tín.
- Thực hiện Đề án KHCN do Bộ Giao thông đặt hàng: “Tìm nguyên nhân và giải pháp triệt tiêu điểm đen trên QL5 đoạn đi qua tỉnh Hải Dương” năm 2014. Kết quả đã được hội đồng khoa học của Bộ Giao thông đánh giá cao, kể cả chấp nhận giải pháp xử lý mang tính khả thi cụ thể là sản phầm khử tia đất” do Công ty sản xuất chế tác (có Quyết định chấp nhận sử dụng chất xử lý kèm theo)
- Chủ động và độc lập “Khảo sát kiểm tra tìm nguyên nhân nhiều xe máy tự ngã tại khúc cua ở Km93 QL70 trên địa bàn huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái” 1/2019. Báo cáo kết quả gửi về Bộ Giao thông và Tổng cục đường bộ Việt Nam để xử lý.
- Chủ động và độc lập “Khảo sát kiểm tra tìm nguyên nhân vụ tai nạn liên hoàn kinh hoàng ở Km63+300, QL5 thuộc huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương”, 2019. Báo cáo kết quả gửi về Bộ Giao thông và Tổng cục đường bộ Việt Nam để xử lý
- Lĩnh vực Địa chất khoáng sản (phát hiện và định vị tất cả các loại mỏ chỉ cần 1 loại từ kế thuộc CNBXT)
Cũng chỉ với 1 từ kế duy nhất thuộc CNBXT có thể phát hiện và tìm được các loại mỏ rắn, lỏng, khí – kim và phi kim, kim loại mầu và kim loại đen kể cả dầu khí, đá quý và bán quý…vừa nhanh vừa chính xác. Đặc biệt có thể vừa di chuyển vừa đo trên ô tô, tầu thuyền kể cả máy bay. Trong hơn 10 năm qua bằng CNBXT đã giúp cho hơn 10 doanh nghiệp khai mỏ miền Bắc tìm kiếm mỏ mới hoặc kiểm tra xác định lại diện tích phân bố và hướng phát triển của thân quặng cũng như đánh giá lại trữ lượng mỏ đang khai thác còn nhiều hay ít…Cụ thể là:
Lập bản đồ xác định phạm vi phân bố (theo diện) , khoanh vùng phân cấp hàm lượng (phong phú, trung bình, nghèo) và xác định bề dầy thân quặng của mỏ vàng sa khoáng ở Na Rỳ Bắc Cạn cho “Công ty khai khoáng Dũng Hải” năm 2009. Lần lượt sau đó là các mỏ:
- Mot Đồng Chũ, Bắc Giang, 2013 – Mỏ Manggan Tốc Tát, Cao Bằng, 2012 – Mỏ thiếc Quỳ Hợp, Nghệ An, 2013 – Mỏ đa kim Anh Sơn, Nghệ An, 2013 – Vàng sa khoáng Yên Bình, Cao Bằng, 2009 – Mỏ vàng nhiệt dịch Lương Sơn, Hòa Bình 2013 – Mỏ Wolfram Cửa Ông, Quảng Ninh. 2013 – Đá đỏ Quỳ Hợp, Nghệ An. 2010 – Mỏ đá Thạch anh Quảng Bình 2007.
- Đặc biệt, độc lập kiểm tra mỏ khí Thái Bình (2011) bằng CNBXT, cách xa trên 10km từ kế đã báo tín hiệu của mỏ khí và quá trình đo phát hiện mỏ khí này còn phát triển rộng về phía Tây giáp huyện Kiến Xương và Nam qua sông Hồng sang huyện Giao Thủy Nam Định. Năm 2013 tham gia báo cáo khoa học tại Hội thảo KHCN của Viện Địa vật lý dầu khí thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam về “Triển vọng của CNBXT trong thăm dò tìm kiếm dầu khí ở Việt Nam”, được Hội nghị ủng hộ tích cực, đặc biệt Tổng Giám đốc Tập đoàn dầu khí cũng dự Hội thảo Đỗ Văn Hậu hứa sẽ đầu tư để triển khai áp dụng thử nghiệm CN này, trước hết chi 100 triệu để cùng với Viện Địa vật lý dầu khí đi thực địa kiểm tra thực hư mỏ khí Tiền Hải Thái Bình còn hay hết.
- Độc lập khảo sát nghiên cứu thực địa phát hiện 2 mỏ đá quý Ruby ở Lục Yên Yên Bái (2019) và Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghệ An (2015), hai nơi này còn khá nhiều điểm mỏ khác nhau (Địa chất mỏ chưa biết) phân bố rải rác trên diện rộng. Chúng tôi dự kiến năm tới 2022 sẽ trình báo lên Bộ Tài nguyên và Môi trường về các mỏ này để có hướng khai thác làm giầu cho Đất nước.
- Lĩnh vực Tài nguyên thiên nhiên (phát hiện và tìm kiếm nước ngầm, nước nóng, nước dưỡng sinh, biên xâm nhập mặn cũng chỉ cần dùng 1 loại từ kế của CNBXT)
Công nghệ bức xạ từ đã tác động vào lĩnh vực này ở Việt Nam sớm nhất so với các lĩnh vực nêu ở trên ngay từ năm 2001 khi tham gia Đề tài KHCN “Hồ Treo” của Viện Địa chất, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam. Từ đó đến nay khối lượng công tác khảo sát đo đạc tìm nước ngầm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất cho những vùng khan hiến và khó khăn về nước đã phủ gần khắp đất nước đạt trên 40 tỉnh thành và Hải đảo như: Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Hòa Bình, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Phú Thọ, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghê An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, KonTum, Gia Lai, Đăclăk, Đăknông, Đà Lạt, Buôn Mê Thuật, Lâm Đồng, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Ninh Thuận, Bà Rịa – Vòng Tàu, Bạch Long Vĩ, Cát Bà, Côn Đảo, Phú Quốc, Vinpealland… với tổng số trên 500 giếng khoan có nước cho dân. Song song giúp dân, CNBXT còn được Chính quyền các địa phương Tỉnh, thành, thị trấn, thị tứ kể cả các Doanh nghiệp nhà nước và tư nhân tin dùng và yêu cầu Hợp đồng dưới dạng Đề tài, Đề án, Dự án KHCN tìm nước ngầm phục vụ quy hoạch khai thác cấp nước tập trung…Tính đến nay Công ty Tia đất đã thực hiện trên 100 hợp đồng lớn nhỏ như vậy trên khắp cả nước và 2 Hợp đồng với Campuchia. Dưới đây giới thiệu một số công trình điển hình tìm nước ngầm thành công ở Việt Nam và Campuchia mà trước đó các đơn vị thăm dò Địa vật lý ở các Bộ ngành, tỉnh thành thất bại không tìm ra.
Đề tài KHCN ứng dụng CNBXT tìm nước ngầm có:
- Đề tài KHCN của Sở KH&CN tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu: “Khảo sát tìm nước dưới đất tại một số vùng khó khăn về nước ở Bà Rịa-Vũng Tầu bằng phương pháp địa bức xạ”, 2009-2010, TS. Vũ Văn Bằng Chủ nhiệm, Công ty nghiên cứu môi trường tia đất bảo vệ sức khỏe chủ trì. Kết quả các thông số kỹ thuật của giếng khoan kiểm chứng gần trùng khớp với số liệu đo bằng máy. Nghiệm thu đề tài với 4 phiếu xuất sắc và 5 phiếu khá.
- Đề tài KHCN của Sở KH&CN tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu: “Nghiên cứu ứng dụng phương pháp địa bức xạ lập sơ đồ đánh giá trữ lượng và tiềm năng nước ngầm ở xã Suối Rao huyện Châu Đức và huyện Côn Đảo”, 2012, TS. Vũ Văn Bằng chủ nhiệm, Công ty nghiên cứu môi trường tia đất bảo vệ sức khỏe chủ trì. Kết quả nghiệm thu đề tài với 4 phiếu xuất sắc và 5 phiếu khá. Khác hẳn với trước đó, trong buổi họp Hội đồng thẩm định đề cương đề tài, đại diện Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu khăng khăng phủ quyết không cần nghiên cứu nữa với lý do nước ngầm trong đá gốc ở Côn Đảo từ năm 1994 đến nay 2010 đã được 6 đơn vị chuyên ngành Địa chất thủy văn chính thống của nhà nước (thuộc Bộ Tài nguyên Môi trường), khẳng định rằng ở Côn Đảo không có nước ngầm trong đá gốc chỉ có ở các cồn cát cổ…
- Đề tài KHCN của Sở KH&CN tỉnh Quảng Bình: “Nghiên cứu luận cứ khoa học tìm nguyên nhân và giải pháp thoát lũ nhanh cho Xã Tân Hóa, Huyện Minh Hóa”, 2012, TS. Vũ Văn Bằng chủ nhiệm. Công ty nghiên cứu môi trường tia đất bảo vệ sức khỏe chủ trì.
- Đề tài KHCN của Sở KHCN tỉnh Lao Cai: “Nghiên cứu ứng dụng CNBXT tìm nước ngầm vùng Trung tâm thị xã Sa Pa phục vụ quy hoạch khai thác cấp nước bền vững lâu dài”, năm 2021 (đang triển khai thực hiện).
Đề án KHCN ứng dụng CNBXT tìm nước ngầm có:
- Đề án KHCN của Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Bình: “Nghiên cứu tìm nước ngầm trong đá gốc Riolit cho Khu kinh tế và Công nghiệp Cảng biển Hòn La Quảng Bình”, 2008-2009, TS. Vũ Văn Bằng chủ nhiệm, Công ty nghiên cứu môi trường tia đất bảo vệ sức khỏe chủ trì. Kết quả khoan 13 vị trí máy báo có nước đều có nước với tổng lượng nước khai thác đạt 9.000m3/ngày lớn hơn lượng nước yêu cầu là 7.500m3/ngày, tiết kiệm cho Tỉnh trên 50 tỷ đồng thay vì Dự án lấy nước mặt từ sông Thai về cách đó gần 20km. Sở dĩ có Dự án xa vời này là trước đó Sở KHCN Quảng Bình đã lập Đề tài “Tìm nước ngầm cho khu Công nghiệp cảng biển Hòn La” (2007-2008), Trường Đại học Huế và Viện Địa chất Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam tham gia nghiên cứu và tiến hành khoan 17 điểm khoan nhưng đều không có nước. Đề tài kết luận nước ngầm trong đá gốc Riolit xã Quảng Đông rất nghèo không có thể khai thác công nghiệp. Nên Tỉnh Quảng Bình lập Dự án lấy nước mặt là như vậy.
Dự án KHCN ứng dụng CNBXT tìm nước ngầm có:
- Dự án KHCN của Trung tâm nước sạch và VSMTNT Quảng Bình “Tìm nước ngầm khai thác cấp nước tập trung” cho 6 xã khan hiếm nước của Tỉnh: Thanh Trạch, Hải Trạch, Bắc Trạch, Vạn Ninh, Văn Hóa, (2007-2012). Sau đó tất cả các xã này khoan theo chỉ dẫn của CNBXT đều có nước và xây trạm cấp nước tập trung cấp nước cho người dân trong xã, khác hẳn với trước đó Trung tâm nước sạch đã khoan mỗi xã tối thiểu từ 3 đến 7 mũi khoan đều không có nước.
- Dự án KHCN “Tìm kiếm và khai thác cấp nước cho thị trấn Neo, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang” , trước đó địa chất thủy văn tỉnh đã khảo sát và khoan 5 giếng đều không có nước. Sau đó Công ty tia đất theo yêu cầu của Chính quyền thị trấn đến khảo sát tìm vị trí có nước ngầm. Kết quả khoan cả 3 vị trí đều có nước ngầm với lưu lượng lớn chỉ 3 giếng đã thừa nhu cầu cấp nước cho thị trấn khoảng 1000,3/ngày.
- Dự án: “Find underground water for Pursat Food Industrial Zone”, Cambodia for KHMER FOODS GROUP CO.Ltd, 2013
- Dự án: “Find underground water for Food Industrial Zone at Thomoco district, Batambang city, Cambodia” for KHMER FOODS GROUP CO.Ltd, 2015.
Tìm nước khoáng nóng bằng CNBXT
- Dự án KHCN của Viện Địa chất nước và Môi trường thuộc Liên Hiệp các Hội KH&KT Việt Nam: “Nghiên cứu phát hiện và tìm nước khoáng nóng ở Xã Duyên Hải, huyện Hưng Hà phục vụ phát triển dân sinh kinh tế tỉnh Thái Bình”, 2016. TS. Vũ Văn Bằng Chủ nhiệm, Công ty nghiên cứu môi trường tia đất bảo vệ sức khỏe chủ trì
- Dự án “Nghiên cứu xác định những vị trí nóng nhất của nguồn nước nóng Suối Bang phục vụ cho quy hoạch du lịch nghỉ dưỡng theo mô hình Nhật Bản” theo yêu cầu của Tập đoàn Trường Thịnh, Quảng Bình, 2018
- Độc lập nghiên cứu khảo sát phát hiện nước nóng ở vùng La Tiến xã Tống Trân và Yên Hòa, huyện Phủ Cừ, Tỉnh Hưng Yên.
- Nghiên cứu khảo sát phát hiện nước khoáng nóng ở TP Đồng Soài, tỉnh Bình Phước, 2019 theo yêu cầu của Bí thư Thành ủy. Kết quả có 4 địa điểm trong thành phố có nước nóng.
- Nghiên cứu khảo sát phát hiện nước khoáng nóng ở 2 địa điểm thuộc huyện Mường La, tỉnh Sơn La theo yêu cầu của Công ty du lịch sinh thái Mường La, 2020.
- Độc lập nghiên cứu khảo sát phát hiện nước ngầm nóng cho Thủ đô Hà Nội, 2020 – 2021 đã phát hiện và định vị được 15 vị trí có nước nóng phân bố ở huyện Ba Vì và Sơn Tây. Công ty Tia đất dự kiến năm tới 2022 sẽ lập báo cáo gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét sử dụng kết quả nghiên cứu này để phục vụ nâng cao sức khỏe người dân Thủ đô.
Xác định biên xâm nhập mặn bằng CNBXT
- Xác định biên xâm nhập mặn dọc bờ biển tỉnh Quảng Bình phục vụ Quy hoạch “Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn” Tỉnh năm 2011-2015 tầm nhìn 2020.
- Xác định biên xâm nhập mặn dọc bờ biển sân bay Cổ Ống, thị trấn Côn Sơn và Bến Đầm huyện Đảo Côn Đảo phục vụ Quy hoạch khai thác nước ngầm trong đá gốc phát triển du lịch của Đảo.
- Lĩnh vực chống thiên tai – tai biến địa chất bảo vệ an sinh xã hội
Tham gia lĩnh vực này theo yêu và thực hiện chức năng phản biện khoa học của Liên Hiệp các Hội KH&KTVN (Kinh phí tự trang trải):
- Động đất ở Đập thủy điện Sông Tranh 2 (2012)
Đo đạc kiểm tra điều kiện địa chất kiến tạo, hoạt động động đất và độ ổn định, an toàn của nền đập chính Thủy điện Sông Tranh 2, Bắc Trà My, Quảng Nam trên diện tích 400km2 trong thời gian 3 ngày. Kết quả xác định động đất đã ở đỉnh và chuyển sang thời kỳ tắt dần, còn con đập hoàn toàn ổn định không có đứt gẫy địa chất kiến tạo nguy hiểm dưới nền đập như các nhà Địa chất khảng định. Kết quả khảo sát đo đạc đã gửi tới 14 cơ quan chức năng Nhà nước: Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải, Liên hiệp các Hội KH&KTVN, Văn phòng Chính phủ, Ban Tuyên giáo Trung ương, UBKH&MT Quóc hội, Bộ KH&CN, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Hàn lâm KH&CNVN, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Hội đồng nghiệm thu Nhà nước các Công trình xây dựng, UBND tỉnh Quảng nam, UBND huyện Bắc Trà My. Trên cơ sở kết quả này Tập đoàn ĐLVN tiếp tục cho dâng nước sản xuất điện trở lại tiết kiệm được hàng trăm tỷ đồng không phải xây dựng lại đập.
- “Hố tử thần” ở thành phố Cẩm phả Quảng Ninh (2013)
Tìm nguyên nhân và giải pháp xử lý sụt lún đất ở khu Hải Sơn 1, F. Cẩm Đông, TP. Cẩm Phả. Kết quả nghiên cứu của tác giả đã được báo cáo ở Hội nghị do UBND TP. Cẩm Phả tổ chức, ngày 8/10/2013 với 13 cơ quan chính quyền cùng đầy đủ các Sở ban ngành liên quan của tỉnh tham dự. Hội nghị đánh giá cao kết quả sử dụng công nghệ bức xạ từ hơn hẳn kết quả địa vật lý truyền thống.
- “Hố tử thần” ở An Tiến, huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội (2016)
Kết quả ứng dụng công nghệ bức xạ từ khảo sát điều tra tìm nguyên nhân và cơ chế gây hiện tượng sụt lún đất ở thôn Hòa Lạc, xã An Tiến, huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội, 2016 (sập nhà dân). Báo cáo kết quả đã gửi tới các Cơ quan: Sở Tài nguyên & Môi trường Hà Nội, Chủ tịch Hội Địa chất thủy văn VN, Chủ tịch UBND huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội, Chủ tịch UBND xã An Tiến, huyện Mỹ Đức nghiên cứu xử dụng
Chống lũ lụt, đã thực hiện Đề tài KH&CN: “Nghiên cứu luận cứ khoa học tìm nguyên nhân và đề xuất giải pháp thoát lũ nhanh cho xã Tân Hóa, Huyện Minh Hóa, Tỉnh Quảng Bình do Sở KH&CN Quảng Bình quản lý năm 2011. Kết quả tỉnh đang xin kinh phí để thi công các giải pháp tác giả đề xuất để giúp địa phương chống thiên tai.
- Lĩnh vực tìm kho báu
CNBXT tham gia tìm kho báu phủ hầu khắp toàn quốc từ Cao bằng, Lạng Sơn đến Vĩnh Long, Trà Vinh với trên 100 địa điểm. Trong số đó đáng kể là 2 kho báu ở Núi Tầu, Bình Thuận và núi Bà Đen, Tây Ninh.
- “Kho báu 4000T vàng Núi Tầu”, CNBXT nhập cuộc theo yêu cầu của UBND tỉnh Bình Thuận và ông Nguyễn Hữu Tiệp năm 2012. Kết quả đo đạc đã phát hiện ra kho chứa vàng là một cái đới dập vỡ địa chất kiến tạo dọc ngọn núi Tầu với thể tích rỗng chỉ chứa được khoảng 50-70T vàng. Nhưng đã bị lấy đi vào khoảng năm 1967 ? (thời Mỹ ngụy).
- “Các kho báu ở triền và chân núi Bà Đen, tỉnh Tây Ninh” CNBXT làm theo yêu cầu của Phó Chủ tịch TP. Hồ Chí Minh năm 2013. Kết quả không có gì chỉ là đồn thổi
Kết luận
- Tính mới và độc quyền
Trong số những lĩnh vực nêu trên, lĩnh vực số 1, 2, 3, 4 và 5 cho đến nay kể cả trên thế giới cũng như trong nước chưa đâu làm được. Nên đây có thể được coi là những lĩnh vực Công ty Tia đất độc quyền và hoàn toàn mới có một không hai trên thế giới. Những lĩnh vực còn lại có nhiều ưu điểm vượt trội có thể thay thế những giải pháp tương tự trên thế giới và trong nước đang sử dụng
- Công trình khoa học –Công nghệ bức xạ từ có gía trị và ý nghĩa lớn về mặt khoa học – thực tiễn – kinh tế – xã hội
Tác giả của công trình nghiên cứu khoa học mang tên: “Công nghệ bức xạ từ” rất tâm đắc với câu đánh giá nhận xét của Hội đồng khoa học Liên hiệp Hội KH&KT Việt Nam ghi trong Biên bản họp ngày 18/9/2012: “Công trình có ý nghĩa khoa học, thực tiễn, kinh tế và xã hội. Là một phát minh có thể đăng ký bản quyền tác giả”. Đúng vậy! và tác giả xin mượn câu đánh giá này để kết thúc trình bày bài toàn văn mô tả công trình phát minh của mình. Tính khoa học – thực tiến – kinh tế và xã hội đó nằm ở chỗ:
- Khoa học: đây là một phát minh thế kỷ, trí tuệ đỉnh cao đón đầu cuộc CMCN 4.0
- Thực tiễn: gần giũ gắn bó trực tiếp với những nhu cầu thiết yếu đời sống con người
- Kinh tế: sản phẩm vô cùng phong phú và đa dạng, nhanh, nhiều, tốt và rẻ
- Xã hội: khỏe mạnh, công bằng, văn minh
Công Ty CP Nghiên Cứu Môi Trường Tia Đất Bảo Vệ Sức Khỏe
Chủ tịch HĐQT
TS. Vũ Văn Bằng
(Quý khách hàng có nhu cầu liên hệ công việc vui lòng liên hệ số: 0765 36 46 56 – 0967 235 486 – 0913 203 452 hoặc gửi thông tin cho chúng tôi TẠI ĐÂY. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!)